*Hiệu quả thoát nước nước từ bộ bộ phận ép phụ thuộc vào các yếu tố sau:
-lực ép :lực ép càng cao thì lực ép thoát ra càng nhiều. Nhưng áp lực ép không được cao quá làm phá vỡ kết cấu của tấm giấy .
-Tính chất thoát nước của chăn ép : chăn ép khải là vật liệu mịn , bền , thoát nước tốt (như len ,sợi tổng hợp ), chăn ép phải làm sạch thì thoát nước mới tốt , chăn ép bẩn thoát nước kém dễ gây hiện tượng ép nát làm hư giấy .
Độ thoát nước từ bột giấy : độ nghiền SR càng cao thì khả năng thoát nước càng chậm , lực ép phải hạn chế và tăng từ từ để tránh hiện tượng ép nát , hoặc phải làm tăng nhiệt độ của tấm bột để làm giảm độ nhớt của nước, làm cho nước dễ thoát hơn . Cách này gọi là phương pháp ép nóng .
Một cặp ép thường bao gồm hai lô ép : lô ép dưới và lô ép trên:
-Lô ép dứới : thường tiếp xúc với chăn ép. Nó thường được đucs bằng thép, ngoài bọc bằng cao su hay vật liệu có tính đàn hồi nên gọi là lô mềm. Mục đích bọc lớp vật liệu đàn hồi là tăng diện tích tiếp xúc giữa 2 lô ép, tăng khả năng chịu lực của cặp ép. Bề mặt những lô ép dưới của các máy xeo hiện đại có thể là một trong các dạng như sau:
+Lô ép có bề mặt trơn (không khoan lổ hoặc làm rãnh ):
Khi đó độ thoát nước hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng hút nước của chăn ép. Để làm tăng khả năng thóat nước người ta có thể sử dụng 2 chăn ép đệm ở 2 bên mặt tấm giấy để thút nước thoát ra từ cả 2 phía khi đi qua ép. Cặp thứ nhất trong bộ phận ép thường sử dụng dạng ép này.
+ Lô ép có khoan lỗ và có hút chân không:
Bề mặt lô có niều lổ khoan làm lỗ thoát nước, đường kính mỗi lỗ khoảng 0,5cm và bên trong lô có lắp dặt các khoang hút chân không như đối với trục bụng.
Các lô này được ứng dụng trong các trường hợp ép hút chân không. Cách này cho phép tăng đáng kể độ khô tấm giấy khi đi qua ép. Nhưng vì có nhiều lỗ nên làm giãm khả năng chịu lực của lô vào lô ép kiểu này rất đắt tiền vì chi phí gia công lớn.
+Lô có các khe thoát nước:
Chiều sâu mỗ khe 0,5mm, chiều ngang khe 2,5mm, khoảng cách giaữ 2 khe là 3,2mm ( có khoảng 8 khe trên mổi ink theo chiều dài lô ). Cách thiết kế này giúp tăng đáng kể khả năng thoát nước từ tấm giấy sang chăn và từ chăn sang khe của lô ép, do đó cho phép tăng lực tác dụng lên lô ép. Kết quả là tăng được đáng kể độ khô của tấm giấy sau khi qua lô ép dạng này so với lô ép , ặt nhẵn. Nứoc từ các khe sau dó bị văng đi do lực li tâm khi máy xeo chạy với vận tốc cao. Các khe ép dược làm sạch bằng cách phun nước sau đó có tấm gạt nước để làm khô bề mặt lô trước khi tiếp xúc với giấy trong chu trình mới. Lô ép kiểu này giá thành cũng rẽ hơn và bền hơn hẳn so với lô ép chân không.
+Lô ép có các lỗ thoát nước nông (không vào dến khoang rỗng bên trong lô ).
Lô này có khoang rỗng để chứa nước thoát ra từ tấm giấy lớn hơnlô dạng khe nên khả năng thoát nước tốt hơn. Nước từ các lổ này bị văng ra khi lô quay với vận tốc cao, khả năng tự làm sạch của lỗ này cũng tốt hơn lô dạng khe.
Lô này thường tiếp xúc với bề mặt tấm giấy, nó thường được làm bằng đá granit hoặc đá nhân tạo được gia công nhẵn. Việc sử dụng đá granit làm lô ép trên có 2 mục đích:
.Thứ nhất là lợi dụng tỷ trọng cao của đá để tăng lực ép .
.Thứ hai là kết cấu tđá granit có đặc điểm là có các lổ li ti, trong dó có chứa không khí, vì vậy khi bị ép mạnh lên bề mặt giấy thì các lỗ nhỏ này có tác dụng lỗ đệm khí, làm cho tấm giấy tuy bị ép chặt nhưng không bị dính vào bề mặt lô.
3.4/ ĐỘ LỆCH TÂM GIỮA 2 LÔ ÉP.
Lô ép trên luôn luôn được đặt trên lô ép dưới một chút theo chiều chuyển động của tm61 giấy:
Độ lệch tâm như vậy nhằm 2 mục đích:
.Thứ nhất là để kực ép được tăng lên từ từ trước khi đạt giá trị cao nhất.
.Thứ hai là tăng diện tích ép.
Như vậy để quá trình ép được ôn hòa hơn, tránh được sự phá vở của tấm giấy trong vùng ép. Độ lệch tâm thường khoảng 50-120mm. Độ lệch tâm phụ thuộc vào đường kính lô ép và tốc độ máy xeo” đường kính càng lớn, tốc đọ máy càng cao thì độ lệch tâm càng nhiều. Trên máy xeo có nhiều lô ép thì độ lệch tâm của cặp ép sau cùng là nhỏ nhất.
Lực ép trên tấm giấy trong khe ép thường được biểu thị bằng lựctác dụng lên một đơn vị chiều dài của khe ép. Lực ép thường trong khoảng 400-8500N/m. Lượng nước thoát ra tỉ lệ thuận với diện tích phần giới hạn bởi đồ thị của lực ép với trục thời gian.
Chăn ép giữ hai nhiệm vụ chính:
+Thứ nhất: Là đỡ phía tấm lưới giấy ướt và dẫn nó đi vào bộ phận ép.
+Thứ hai: Là thấm hút nước thoát ra từ tấm giấy khi đi qua vùng ép.
-Chăn ép thường được dệt bằng hai lớp:
Lớp dưới nilon rất bền làm phần cốt thì dệt trước để tạo độ bền, sau đó đan kết sơ sợi mịn là len hoặc sợi tổng hợp lên trên để tạo bề mặt mịn hoặc thấm hút nước từ tấm giấy. Sau đó dẫn tấm giấy đi qua vùng ép thì tấm giấy và chăn cần được tách riêng nhau ra càng nhanh càng tốt đễ tránh hiện tượng nước bị thấm ngược trở lại từ chăn vào tấm giấy, sau đó chăn ép được phun nước để làm sạch rồi được hút chân không để làm khô trước khi tiếp xúc với tấm giấy trong chu kì mới.
3.5.2) Cách bố trí các cặp ép trong bộ phận ép:
-Ép thuận: Tấm giấy được chăn dẫn theo chiều chuyển động xuôi của máy vào khe ép: Mặt trên của tấm giấy tiếp xúc trực tiếp với bề mặt lô ép trên, mặt dưới của tấm giấy mà lúc trước tiếp xúc với lưới, nay tiếp xúc với chăn sấy.
Ưu điểm: Dễ dàng tiến hành, giấy không bị đứt.
-Ép nghịch: Trong cặp ép nghịch, tấm giấy được dẫn theo chiều ngược trở lại so với cặp ép thuận, như vậy lúc này mặt bên kia của tấm giấy sẽ được làm nhẵn, vết hằn của lưới xeo trên tấm giấy sẽ được xóa đi, hai mặt tấm giấy có độ nhẵn tương tự nhau.
3.5.3) Để tăng độ khô của tấm giấy,ngoài các cặp ép thông thường người ta có thể sử dụng thêm 3 cách sau:
-Sử dụng hai chăn ép: Ở hai bên tấm giấy khi qua bộ phận épđer làm tăng khả năng thoát nước từ tấm giấy vào chăn.
-Ép nóng: Gia nhiệt cho tấm giấy trước khi vào bộ phận ép để làm giảm độ nhớt của nước, làm cho nước dễ thoát ra từ tấm giấy hơn. Có các cách gia nhiệt cho tấm giấy ướt:
+Cách thứ nhất: Dùng vòi phun hơi nóng lên bề mặt tấm giấy khi nó đi qua các hòm hút chân không của bộ phận lưới.
+Cách thứ hai: Cho tấm giấy tiếp xúc trực tiếp với bề mặt lô nóng mà bên trong có gia nhiệt bằng hơi.
-Sử dụng cơ chế trên đệm cố định:
Trong cơ chế này, lô ép trên vẫn là lô ép bình thường, nhưng lô ép dưới được thay bằng tấm đệm cố địnTấm này là một tấm cứng được đặt cố định, bên trên tấm cứng là một lớp dày vật liệu chất dẻo không thấm nước có độ chịu nén cao.
Mục đích của lớp vật liệu này là để tăng diện tích tiếp xúc của vùng ép lên là 25cm theo chiều chuyển động của máy xeo và tăng lực ép lên tới giá trị 4000-40.000N/cm.
Như vậy, cách ép này cho phép tăng được đáng kể lượng nước thoát ra từ vùng ép và giảm được hiện tượng ép nát vì lực ép tuy cao nhưng được phân bố trong khổ rộng hơn hẳn so với kiểu ép thường. Cơ chế ép đệm này thường được áp dụng trên các máy để xeo giấy có định lượng lớn và lắp đặt ở khâu ép cuối cùng trước khi vào sấy.
3.5.4) Hiện tượng cong trục của các lô ép và các biện pháp khắc phục:
Khi lô ép trên ép lên lô ép dưới, lực ép lớn làm cho trục của lô ép dưới bị hơi võng xuống một chút, gây ra hiện tượng lực ép phân bố không đều theo chiều ngang của tấm giấy: Ở hai bên đầu thì lực ép hơn phần giữa lô.
Có các cách khắc phục hiện tượng này như sau:
+Cách thứ nhất: Chế tạo lô ép có độ phồng lên ở giữa so với hai đầu.
+Cách thứ hai: Bên trong lô ép dưới người ta thiết kế cơ chế nâng bằng đầu hoặc thủy lực để làm sao duy trì được lực nén vẫn đều dọc theo lô ép mặc dù trục dưới có thể bị cong một chút.
Như vậy: Bộ phận ép đóng một vai trò quan trọng đối với chất lượng và giá thành khi sản xuất giấy. Nếu bộ phận ép được thiết kế và vận hành tốt nó có thể vừa đảm bảo chất lượng về độ nhẵn và độ bền cơ lý của tờ giấy, vừa có khả năng tăng độ khô của giấy lên được nhiều. Trong các máy xeo thường bị độ khô của tấm giấy sau khi qua bộ phận ép đạt khoảng 35-40%. Trên các máy xeo hiện đại độ khô có thể đạt trên 40%, thậm chí là 50%. Như vậy sẽ tiết kiệm được lượng hơi đáng kể cần dùng trong bộ phận sấy tiếp theo, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế trong quá trình sản xuất giấy.